Phân loại Họ_Cu_rốc

Phân loại học của cu rốc và chim toucan vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn[6][7]. Việc tách cu rốc châu Á ra thành một họ độc lập (Megalaimidae) chỉ là một trong các khả năng lựa chọn. Một khả năng khác là gộp tất cả các loài cu rốc và chim toucan trong một họ (Ramphastidae sensu lato), như trong Danh lục Howard & Moore[3]. Một lựa chọn khác là duy trì 4 họ (Megalaimidae, Lybiidae, Ramphastidae, Capitonidae) và sáp nhập các loài cu rốc mỏ to Trung Mỹ (Semnornis spp.) hoặc là vào chung với chim toucan (Ramphastidae sensu stricto) hoặc là vào chung với cu rốc Tân thế giới (Capitonidae sensu stricto). Vị trí của cả Caloramphus và Trachyphonus trong số các loài cu rốc cũng chưa được giải quyết hoàn toàn.

Họ Cu rốc (cu rốc châu Á) khi được coi là một họ độc lập thì là họ chim có quan hệ họ hàng gần với các loài cu rốc châu Phi, cu rốc Nam Mỹ và chim toucan[4][5][8]. Chúng tạo thành một nhóm tự nhiên và cu rốc châu Á là nhánh cơ sở đối với các phân nhánh châu Phi và Nam Mỹ[7][8].

Về tổng thể, các loài cu rốc và chim toucan có sự phân bố xuyên suốt vùng nhiệt đới và là nhánh chị em với nhánh chứa gõ kiến (Picidae) và Indicatoridae[4][9].

Hiện tại người ta công nhận 30 loài cu rốc châu Á[5][10][11][12].

Moyle (2004)[7] thấy rằng cu rốc ria lửa (Psilopogon pyrolophus) lồng sâu trong chi Megalaima truyền thống, vì thế tốt nhất nên gộp chung lại làm một chi. Tuy nhiên, trong trường hợp gộp lại thì tên chi Psilopogon (Muller 1835, loài điển hình pyrolophus) có độ ưu tiên cao hơn tên chi Megalaima (G.R. Gray 1842, loài điển hình virens). Mặc dù vậy, nhưng tên gọi khoa học của họ vẫn là Megalaimidae.

Gần đây, den Tex và Leonard (2013)[13] đã phân tích toàn bộ họ Megalaimidae và khuyến cáo nâng cấp một vài đơn vị phân loại lên cấp loài (ở đây gộp chung các loài Megalaima trong chi Psilopogon). Bốn trong số này là:

  1. Cu rốc bồ hóng (Caloramphus hayii) nên tách ra khỏi cu rốc nâu (Caloramphus fuliginosus).
  2. Cu rốc tai lam (Psilopogon duvaucelii) nên tách ra khỏi cu rốc đầu đen (Psilopogon australis). Do các chủng cyanotis và duvaucelii được coi là lai ghép được ở Thái Lan, nên các chủng còn lại được gán vào loài duvaucelii.
  3. Cu rốc mặt vàng (Psilopogon chrysopsis) nên tách ra khỏi cu rốc ria vàng (Psilopogon chrysopogon).
  4. Cu rốc Kra (Psilopogon chersonesus), đặc hữu của khu vực eo đất Kra, nên tách ra khỏi cu rốc đầu đỏ (Psilopogon asiatica).

Den Tex và Leonard (2013) cũng khuyến cáo tách Psilopogon auricularis ra khỏi Psilopogon franklinii. Tuy nhiên, các đơn vị phân loại này được tin tưởng là lai ghép được tại khu vực Trung Bộ Việt Nam và các khu vực cận kề thuộc Lào. Họ cũng lưu ý rằng tổ hợp Psilopogon asiatica rất có thể chứa ít nhất là hơn một loài nữa, nhưng nghiên cứu thêm là cần thiết để làm sáng tỏ tình hình.